Điều Trị Tiểu Đường Bằng Tế Bào Gốc

GSTS Nguyễn Thanh Liêm

I Giới thiệu chung

Bình thường ở người lớn nồng độ đường trong máu lúc đói là từ 72-100mg/dl tương đương với 4.0- 5.6 mmol/l. Đường huyết lấy bất kỳ lúc nào nhỏ hơn 140mg/dl tương đương với 7.8 mmol/l và HbA1c < 5,7%. Insulin là một chất nội tiết được tuyến tụy tiết ra với nhiệm vụ chuyển hóa đường và giữ cho nồng độ đường trong máu luôn bình ổn . Tiểu đường có thể do tuyến tụy giảm tiết insulin hoặc do các tế bào của các mô đích ( gan, cơ , xương, mỡ…) đáp ứng kém với insulin hoặc phối hợp cả hai cùng với các rối loạn về chuyển hóa đường, mỡ và đạm. Số người bị tiểu đường có xu hướng ngày càng tăng. Tổ chức y tế thế giới ước tính năm 2014 trên toàn thế giới có khoảng 422 triệu người lớn và 1,1 triệu trẻ em và trẻ tuổi vị thành niên mắc tiểu đường.Mỗi năm có khoảng 4 triệu người chết vì đường máu cáo . Ước tính vào năm 2017 toàn thế giới đã chi phí 850 tỉ đô la cho những người lướn bị tiểu đường.
Có 2 loại tiểu đường chính là tiểu đường típ và tiểu đường típ 2 . Tiểu đường típ 1 là do thiếu hụt sản xuất insulin do tụy bị phá hủy bởi chính hệ miễn dịch của mình, chủ yếu gặp ở trẻ em. Tiểu đường típ 2 do các tế bào của các mô như gan, cơ mỡ… kháng lại insulin hoặc insulin hoạt động không hiệu quả, gặp ở người lớn. Tiểu đường típ 2 thường có mối liên hệ với thừa cân, béo phì. Ngoài tiểu đường típ I và typ II còn có loại tiểu đường do kết hợp cả hai cơ chế trên, tiểu đường do đột biến gen ở trẻ sơ sinh, tiểu đường trong thời gian mang thai.

II. Các biểu hiện chính của bệnh

Người bị tiểu đường đi tiểu thường xuyên, khát nước, nhanh đói nên ăn nhiều, uống nhiều nhưng cân nặng lại giảm sút. Nếu không được điều trị tiểu đường gây ra nhiều biến chứng. Biến chứng cấp tính bao gồm nhiễm toan, tăng áp lực thẩm thấu máu có thể dẫn đến hôn mê và tử vong. Tiểu đường kéo dài gây các biến chứng về thị lực, biến chứng thận, tắc các mạch máu nhỏ ở chi gây hoại tử chi…Ngoài các biểu hiện lâm sàng , các tiêu chuẩn xét nghiệm để chẩn đoán tiểu đường bao gồm đường máu lúc đói ≥ 7.0 mmol/L (126 mg/dl), 2-h post-load plasma glucose ≥ 11.1 mmol/L (200 mg/dl) (5), HbA1c ≥ 6.5% (48 mmol/mol); hoặc xét nghiệm đường máu bất kì lúc nào ≥ 11.1 mmol/L (200 mg/ dl).

III. Các phương pháp điều trị kinh điển

Điều trị bằng thuốc
– ĐIều trị tiểu đường típ 2
Chế độ ăn và lối sống. Chế độ ăn và lối sống rất quan trọng trong điều trị tiểu đường típ 2 . Người bị tiểu đường cần tập thể dục, thể thao đều đặn. Chế độ ăn ít đường, nhiểu rau, điều chỉnh để giảm cân, tránh béo phì.
Thuốc điều trị. Tiểu đường típ 2 do nhiều cơ chế bệnh sinh tham gia vì vậy nhiều loại thuốc khác nhau đã được sử dụng bao gồm thuốc kích thích tế bào tụy tiết insulin, thuốc làm tăng nhạy cảm với insulin, thuốc làm chậm hấp thu đường ở ruột… và cuối cùng là insulin .Mặc dù có nhiều loại thuốc nhưng bệnh tiến triển, theo thời gian, chức năng tụy tiếp tục suy giảm nên việc kiểm soát đường huyết bằng các loại thuốc uống gặp nhiều khó khăn. Sau một thời gian điều trị, nhiều bệnh nhân tiểu đường týp 2 cần phải tiêm insulin mới có thể cân bằng được đường huyết. Mặc dù vậy nhiều bệnh nhân vẫn không kiểm soát được đường máu ở mức mong muốn .
– Tiểu đường típ 1. Tiểu đường típ 1 là do tế bào tụy bị phá hủy không còn khả năng sản xuất insulin nên tiêm insulin là bắt buộc.

III.2. Ghép tế bào đảo tụy và ghép tụy

Ghép tế bào đảo tụy hoặc ghép tụy từ người chết đã được thực hiện ở nhiều trung tâm tuy nhiên do nguồn cho khan hiếm và phải dùng thuốc ức chế miễn dịch suốt đời nên các phương pháp này vẫn chưa trở thành một phương pháp điều trị phổ biến.

IV.Điều trị tiểu đường bằng tế bào gốc

IV.1. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên động vật

Một số nghiên cứu cho rằng các tế bào gốc trung mô được ghép có thể biệt hóa thành các tế bào tiết ra insulin tuy nhiên kết quả này đã không được lặp lại ở các nghiên cứu khác.Những nghiên cứu gần đây cho thấy tế bào gốc trung mô có thể tác động làm giảm đường máu thông qua các cơ chế gián tiếp bao gồm việc tiết ra các yếu tố tăng trưởng nuôi dưỡng tế bào, thúc đẩy hình thành mạch máu mới và tái tạo mô .Tế bào gốc cũng tiết ra các yếu tố kháng viêm điều hòa phản ứng viêm,ngăn chặn quá trình chết theo lập trình của tế bào β. Tế bào gốc có thể được truyền vào cơ thể qua đường tĩnh mạch hoặc qua động mạch tụy.

IV.2. Nghiên cứu trên người

Năm 2008 lần đầu tiên Estrada đã tiến hành ghép tế bào gốc tự thân từ tủy xương kết hợp với o xy cao áp cho 25 bệnh nhân bị tiểu đường. Kết quả nghiên cứu cho thấy đường máu và HbA1C giảm có ý nghĩa sau ghép. Mức tiêu thụ insulin cũng giảm so với trước ghép. Năm 2009, Bhansali và cộng sự đã ghép tế bào gốc trung mô từ tủy xương cho 10 bệnh nhân tiểu đường típ 2, kết quả cho thấy 3 bệnh nhân không cần sử dụng insulin để ổn định đường huyết, 7 bệnh nhân còn lại giảm 75% lượng insulin dùng hàng ngày . Những năm tiếp theo nhiều nghiên cứu sử dụng ghép tế bào gốc để điều trị tiểu đường típ 1 và típ 2 đã được công bố.

IV.3. Phương pháp tiến hành

– Chỉ định: cho tiểu đường típ 1 và típ 2
– Nguồn tế bào gốc. Các nguồn tế bào gốc đã được thử nghiệm bao gồm tế bào gốc phôi, tế bào gốc trung mô từ dây rốn, tế bào gốc trung mô từ mô mỡ, tế bào đơn nhân từ tủy xương. Nguồn tế bào gốc được sử dụng nhiều là tế bào gốc trung mô từ dây rốn của các trẻ hiến tặng.
– Kỹ thuật truyền tế bào gốc.
+ Truyền tế bào gốc qua đường tĩnh mạch. Thời gian truyền kéo dài 30 phút. Thời gian nằm viện trung bình là 1 ngày.
+ Truyền tế bào gốc qua động đường động mạch tụy. Luồn một ống thông qua động mạch đùi đưa lên động mạch chủ bụng sau đó đưa vào động mạch tụy. Thời gian truyền kéo dài 30 phút. Thời gian nằm viện trung bình là 1,5 ngày.
– Các rủi ro. Nói chung các rủi to như tụ máu tại chỗ, đau sau khi ghép tế bào gốc qua đường động mạch có thể xảy ra nhưng rất hiếm gặp và có thể tự hết.

V. Kết quả

Năm 2020, Zhang và cs đã tiến hành một phân tích gộp gồm 10 nghiên cứu ghép tế bào gốc cho 226 bệnh nhân tiểu đường típ 1 và 11 nghiên cứu với 386 bệnh nhân tiểu đường típ 2. Kết quả nghiên cứu cho thấy ghép té bào gốc có tác dụng cải thiện nồng độ C-peptide , HbA1c và giảm mức tiêu thụ insulin cần thiết để bình ổn đường máu.
Nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Vinmec với 30 bệnh nhân tiểu đường típ 2 cũng cho thấy truyền tế bào gốc có khả năng cải thiện nồng độ đường máu, mức HbA1c và giảm lượng tiêu thụ insulin ở những bệnh nhân có tiền sử bệnh < 10 năm và chỉ số cơ thể<23.